Tài liệu bổ sung Kinh điển Phật giáo sơ kỳ

Bản kinh Lá bối tiếng Pali Miến Điện.

Hầu hết các học giả hiện đại thường tập trung vào các bộ Nikāya Pāli (đã được dịch hoàn toàn sang các ngôn ngữ phương Tây) và Āgama Hán văn (chỉ được dịch một phần). Ngay từ cuối thế kỷ 19, người ta đã biết rằng Nikāya và Āgama chứa một số lượng lớn các văn bản song song. Trong tài liệu Văn học Phật giáo xuất bản năm 1882 tại Trung Quốc, Samuel Beal đã cho biết rằng, tuy có những dị biệt nhỏ, nhưng hầu hết cốt truyện và tất cả các chi tiết quan trọng trong các bài kinh văn giữa Nikāya và Āgama giống hệt nhau.[26]

Các học giả của thế kỷ 20, bao gồm Anesaki Masaharu và Akanuma Chinzen, cũng đã có những sự nghiên cứu so sánh hai bộ kinh văn sơ kỳ. Trong đó có hai tác phẩm quan trọng là The Four Buddhist Āgamas in Chinese – A Concordance of their Parts and of the Corresponding Counterparts in the Pāli Nikāyas của Anesaki và The Comparative Catalogue of Chinese Āgamas and Pāli Nikāyas của Akanuma.[27][28]

Theo thời gian, nghiên cứu so sánh về các văn bản Phật giáo song song này đã được đưa vào học thuật hiện đại về Phật giáo, chẳng hạn như trong công trình của Etienne Lamotte (1988), người đã nhận xét về mối quan hệ chặt chẽ của chúng. Ông cho rằng, ngoại trừ các phép suy luận của Mahāyāna trong Ekottara (Tăng nhất A hàm), vốn có thể dễ dàng phân biệt được, các biến thể trong câu hỏi [giữa Nikāya và Āgamas] hầu như không ảnh hưởng gì đến phương pháp diễn đạt hoặc sự sắp xếp của các đối tượng. Cơ sở giáo lý chung cho các bộ Nikāya và Āgamas là rất đồng nhất. Tuy nhiên, được bảo tồn và lưu truyền bởi các tông phái, các kinh văn không phải là tài liệu học thuật, mà là di sản chung của tất cả các tông phái.[29]

Tỳ kheo Thích Minh Châu trong một nghiên cứu so sánh (1991) các nội dung trong kinh văn Majjhima Nikaya của Theravada và Madhyama Agama của Sarvastivada, đã kết luận rằng mặc dù có một số khác biệt trong các vấn đề kỹ thuật và thực tiễn, nhưng vẫn có một sự thống nhất nổi bật trong các vấn đề giáo lý.[30] Một nghiên cứu gần đây hơn của Tỳ kheo Analayo cũng đồng ý với quan điểm này. Analayo cho rằng Majjhima Nikaya và Madhyama Agama chứa hầu hết các học thuyết chính giống nhau.[31]

Công việc so sánh này gần đây vẫn tiếp tục được thực hiện trên các tài liệu rời rạc khác còn tồn tại trong các bộ sưu tập tiếng Phạn, Tây Tạng và Gandhāran. Andrew Glass đã so sánh một số lượng nhỏ kinh Gandhāran với các bản kinh Tây Tạng, Pali, Sanskrit và Hán văn của chúng và kết luận rằng có một sự thống nhất trong học thuyết của chúng, mặc dù có một số khác biệt về kỹ thuật.[30]

Theo một số học giả châu Á như Yin Shun, Mizuno Kogen và Mun-Keat Choong, gốc gác chung của Kinh Tương Ưng Bộ và Samyukta Agama là cơ sở cho các EBT khác.[2]

EBT Pāli

Những dải đĩa vàng chứa các phần của Kinh tạng Pali (thế kỷ thứ 5) được tìm thấy ở Maunggan (một ngôi làng gần thành phố Sriksetra).

Kinh điển Pāli của trường phái Nguyên thủy chứa một bộ sưu tập đầy đủ nhất cho đến ngày nay các EBT còn tồn tại bằng một ngữ chi Ấn-Arya.[32] Theo truyền thống Theravada, sau khi được truyền khẩu, nó được lập thành văn tự lần đầu tiên vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên ở Sri Lanka.[33]

Trong khi một số học giả như Gregory Schopen hoài nghi về tính cổ xưa của các kinh văn Pali, Alexander Wynne lại ủng hộ tính nguyên khai của các kinh văn Pali. Ông dẫn chứng sự trùng khớp chính xác giữa di vật dải vàng có chứa các phần kinh tạng Pali với các bản kinh văn Pali ngày nay.[10]

Các kinh văn Phật giáo sơ kỳ trong hệ kinh điển Pāli chủ yếu bao gồm bốn Bộ kinh đầu tiên, các pāṭimokkha và các phần Luật tạng, cũng như một số bộ phận của Tiểu bộ kinh (chủ yếu là Sutta Nipata, Itivuttaka, Kinh Pháp Cú, Therigatha, Theragatha, và Udana).[34][35] Các kinh văn này đều đã được dịch rộng rãi sang các ngôn ngữ phương Tây.

EBT Hán văn

Các EBT được lưu giữ trong hệ kinh điển Hán văn bao gồm A-hàm, được xem là bộ kinh văn song song với các Nikāya Pali về nội dung cũng như cấu trúc.[36] Mặc dù vậy, vẫn tồn tại một số khác biệt giữa các bài kinh văn mà những nghiên cứu so sánh hiện đại đã chỉ ra. Những A-hàm khác nhau này có thể đến từ các bộ phái Sarvastivada (Tạp A-hàmTrung A-hàm), Dharmaguptaka và Kasyayipa.[37] Luật tạng (Vinaya Pitaka) của Mahasamghika cũng tồn tại trong bản dịch Hắn văn.[38] Một số bãn kinh văn A-hàm đã được dịch sang tiếng Anh.[39]

Ngôn ngữ của kinh văn chữ Hán thuộc dạng văn ngôn Trung Quốc cổ đại. Chúng thường được định danh là Hán ngữ Phật giáo (佛教漢語) hoặc Hán ngữ hỗn hợp Phật giáo (佛教混合漢語), sử dụng đáng kể thuật ngữ bản địa hóa. Phật giáo Trung Quốc cũng cho thấy một số lượng đáng kể các yếu tố đó xuất phát từ ngôn ngữ nguồn, bao gồm cả từ căn ke và phiên âm ngữ âm.[40] Phân tích học thuật về các kinh văn này đã chỉ ra rằng chúng được dịch từ các ngôn ngữ nguồn Prakrit Trung Ấn, với các mức độ Phạn hóa khác nhau.[41]

Trong khi các A-hàm Hán văn khác hầu hết tương đồng về mặt giáo lý với Nikaya Pali, thì phần Tăng nhất A-hàm (Ekottara Agama) đã được nhiều học giả khác nhau như Johannes Bronkhorst và Etienne Lamotte xem là chịu ảnh hưởng bởi các khái niệm Đại thừa sau này.[42] Theo Lamotte, những 'nội suy' này có thể dễ dàng nhận ra.[43] Theo Analayo, giả thuyết thường được đề xuất nhất là Tăng nhất A-hàm bắt nguồn từ bộ phái Mahasamgika. [44]

EBT từ Pakistan và Afghanistan

Các mảnh cuộn vỏ cây bạch dương Gandhara (khoảng thế kỷ 1) trong Bộ sưu tập Thư viện Anh

Những khám phá hiện đại về các bộ sưu tập bản thảo rời rạc khác nhau từ PakistanAfghanistan đã góp phần quan trọng vào việc nghiên cứu các kinh văn Phật giáo sơ kỳ.

Hầu hết các văn bản này được viết bằng ngôn ngữ Gandhari và hệ thống chữ Kharoṣṭhī, nhưng một số cũng đã được phát hiện bằng tiếng Bactria.[45] Theo Mark Allon, các kinh văn Phật giáo Gandhāran chứa một số EBT song song với những EBT được tìm thấy trong các bộ sưu tập khác "chẳng hạn như Ekottarikāgama và Vana-saṃyutta của Saṃyutta-nikāya / Saṃyuktāgama." [46]

Những kinh văn này bao gồm một bản song song với Kinh Anattalakkhana, có thể thuộc trường phái Dharmaguptaka. Đã có vài ấn phẩm dịch một số kinh văn này.[47]

Theo Mark Allon ghi nhận, những phát hiện chính gần đây nhất bao gồm các bộ sưu tập sau:[45]

  • "Bản thảo Kharoṣṭhī Thư viện Anh", cuộn vỏ cây bạch dương chép bằng tiếng Gandhari và chữ Kharoṣṭhī, có thể thuộc trường phái Dharmaguptaka. Chúng bao gồm các bài kinh văn xuôi và các tác phẩm thơ giống như các phần của Dharmapada có niên đại vào thế kỷ 1 CN, khiến chúng trở thành những bản viết tay EBT sớm nhất được phát hiện.
  • "Bản thảo Kharoṣṭhī Cao cấp", cuộn vỏ cây bạch dương chép bằng ngôn ngữ Gandhari và chữ Kharoṣṭhī, có thể thuộc trường phái Dharmaguptaka. Hầu hết trong số này bảo tồn các kinh văn xuôi "kinh điển", cũng như một số tài liệu tiểu sử về cuộc đời của Đức Phật gắn liền với Luật tạng.
  • " Bản thảo Schøyen ", được phát hiện trong các hang động Bamiyan, một bộ sưu tập lưu giữ các kinh văn Phật giáo, Vi diệu pháp và Đại thừa thời kỳ đầu bằng tiếng Phạn hoặc Gandhari.

Một phát hiện quan trọng khác gần đây là "một phần đáng kể của một bản thảo lớn bằng vỏ cây bạch dương chép bằng tiếng Phạn của Dirghagama, phần kinh điển chứa các bài giảng dài, thuộc trường phái (Mula) -Sarvastivada, có niên đại vào thế kỷ thứ bảy hoặc thứ tám sau Công nguyên".[45]

Abhidharma

Các văn bản và bộ sưu tập A-tì-đạt-ma khác nhau (Pitakas) được các học giả coi là (hầu hết) là tài liệu muộn hơn (thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên trở đi) và do đó không phải là EBT.[48] Mặc dù có sự ra đời tương đối muộn của các tác phẩm Vi Diệu Pháp, nhưng theo các học giả như Erich Frauwallner, vẫn có những hạt nhân của kinh văn sơ kỳ tiền phái trong lớp sớm nhất của văn học Vi Diệu Pháp, chẳng hạn như trong Vibhanga của Thượng tọa bộ, Dharmaskandha của Sarvastivada, và Śāriputrābhidharma của Dharmaguptaka. Theo nghiên cứu so sánh của Frauwallner, những văn bản này có thể được phát triển và "xây dựng từ cùng một chất liệu", chủ yếu là danh sách giáo lý Phật giáo sơ khai (tiếng Pali: mātikā, tiếng Phạn: mātṛkā) tạo thành "cốt lõi cổ xưa" của Vi Diệu Pháp sơ khai.[6]

Nguồn Mahāsāṃghika

Cuộc chia rẽ đầu tiên trong cộng đồng Phật giáo là giữa các nhánh gọi là Sthaviras ("Trưởng lão") và Mahāsāṃghika ("Đại chúng"). Do đó, một số học giả như Edward Conze đã nhấn mạnh tầm quan trọng của EBT có sự tương đồng trong cả hai nguồn Sthavira và Mahāsāṅghika.[49] Tuy nhiên, có ít văn bản Mahāsāṃghika còn sót lại so với tài liệu của Sthavira.

Một nguồn quan trọng cho Đại chúng bộ EBT là kinh văn Mahāvastu. Nó ghi chép lại cuộc đời thần thoại của Đức Phật bao gồm nhiều câu chuyện huyền thoại nhưng cũng bao gồm nhiều câu chuyện tương tự EBT.[50]

Ngoài ra còn có những đoạn kinh Mahāparinirvāṇa và Caṁgi (Pali: Caṅki) của bộ kinh Mahāsāṃghika có niên đại từ thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ thứ 4.[51]

Śālistamba Sūtra (Đạo can kinh) là một kinh văn Phật giáo sơ kỳ gắn liền với trường phái Mahāsāṃghika, chứa nhiều đoạn song song với kinh Pali. Như N. Ross Reat đã lưu ý, kinh văn này nói chung phù hợp với các học thuyết cơ bản trong EBT của Sthavira như "duyên khởi", "trung đạo", "ngũ uẩn", "tam độc", "tứ diệu đế" và "bát chính đạo".[52]

Ngoài ra còn có nhiều văn bản Luật tạng Mahāsāṃghika chứa tài liệu sơ kỳ, bao gồm giới bổn ('prātimokṣa) của tông phái này, gần như giống với giới bổn của Sthavira (pātimokkha).[5]

Kinh Tăng nhất A-hàm (Ekottara Āgama) được các học giả khác nhau gán cho Mahāsāṃghika, mặc dù sự ghi nhận này vẫn chưa chắc chắn.[53]

Những nguồn khác

Có nhiều EBT khác nhau được thu thập trong Kangyur Tây Tạng. Peter Skilling đã xuất bản bản dịch tiếng Anh của những văn bản này trong hai tập "Mahasutras" (Pāli Text Society, 1994). Theo 84000.co, một trang web của các bản dịch Kinh điển tiếng Tây Tạng, danh mục Degé Kangyur nói rằng kinh Toh 287-359 của phần Kinh chung là tác phẩm "Śrāvakayāna " "có lẽ được trích từ Āgamas của Mūlasarvāstivāda ".

Một nguồn tư liệu Phật giáo sơ kỳ quan trọng khác trong kinh điển Tây Tạng là nhiều trích dẫn của Śamathadeva trong Abhidharmakośopāyikā-ṭīkā (Derge no. 4094 / Peking no. 5595), một bài chú giải về Abhidharmakosha. Một số tài liệu này có sẵn trong bản dịch tiếng Anh bởi Tỳ kheo ni Dhammadinnā.[54]

Các luận thuyết Đại thừa đôi khi cũng trích dẫn các EBT. Theo Etienne Lamotte, Đại trí độ luận (Mahāprajñāpāramitāupadeśa) trích dẫn "khoảng một trăm kinh của Tiểu thừa; phần lớn được mượn từ các kinh văn Āgama." [55] Nhiều phần của Du-già sư địa luận (Yogācārabhūmi-śāstra) chứa một phần có tiêu đề Vastusaṃgrahaṇī trong đó bao gồm tóm tắt các chủ đề quan trọng được tìm thấy trong mỗi bài kinh (sutra) của Samyukta-Agama, cũng như các chủ đề của Luật tạng và Luận tạng (Mātṛka).[56]

Nhiều trích dẫn kinh của các tác giả luận thuyết Sautrantika cũng từ nguồn các đoạn EBT. Trường phái Sautrantika được biết đến với việc tập trung vào việc sử dụng các ví dụ từ và các tham chiếu đến EBT. Những tác phẩm này bao gồm Drstantapankti của Kumaralata, Abhidharmamrtara-sasastra của Ghosaka, Abhidharmavatara-sastra của Skandhila và Tattvasiddhi của Harivarman.[57]

Các di vật được viết bằng tiếng Phạn của các bản A-hàm Phật giáo sơ kỳ khác nhau từng tồn tại từ cũng được phát hiện khảo cổ học ở Lưu vực Tarim và thành phố Turfan. Những phát hiện này bao gồm các phiên bản của một Udanavarga tiếng Phạn.[58]

Kinh điển Tây Tạng cũng bao gồm một văn bản lớn Mūlasarvāstivāda được gọi là Ứng dụng của Chánh niệm về Thánh pháp (Saddharmasmṛtyupasthāna, Toh 287), chứa một số đoạn EBT.[59]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Kinh điển Phật giáo sơ kỳ http://read.84000.co/section/O1JC114941JC14668.htm... http://www.palitext.com/ http://www.ancient-buddhist-texts.net/Reference/Ea... http://mbingenheimer.net/tools/bibls/transbibl.htm... http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/index.html http://santifm.org/santipada/wp-content/uploads/20... //www.worldcat.org/issn/1017-7132 http://agamaresearch.ddbc.edu.tw/ https://www.buddhismuskunde.uni-hamburg.de/pdf/5-p... https://www.buddhismuskunde.uni-hamburg.de/pdf/5-p...